Có lộ trình chuẩn hóa nhà giáo
Thừa ủy quyền Chính phủ trình bày tờ trình,ửađổitoàndiệnLuậtGiáodụkết quả middlesbrough Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) Phùng Xuân Nhạ cho biết: Qua 12 năm thực thi, Luật Giáo dục đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển giáo dục và đào tạo Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế, tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong hệ thống giáo dục quốc dân. Các kết quả đạt được góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam, được nhiều nước, tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Tuy vậy, Luật Giáo dục cũng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, trở thành những điểm nghẽn, là nút thắt trong quá trình thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT.
Cụ thể, theo Bộ trưởng, quy định về hệ thống giáo dục quốc dân chưa thể hiện được sự gắn kết chặt chẽ giữa các cấp học và trình độ đào tạo; giữa giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên; thiếu định hướng phát triển và phân luồng người học từ sau trung học cơ sở.
Quy định về mục tiêu, yêu cầu, nội dung, chương trình giáo dục, phương pháp giáo dục phổ thông chưa đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học, nhất là những yêu cầu về vận dụng kiến thức, rèn luyện tư duy độc lập, khả năng tự học, các kỹ năng thực hành, kỹ năng hợp tác và làm việc nhóm, kỹ năng ngoại ngữ và tin học.
Nội dung, chương trình học cũng chưa tạo được điều kiện thuận lợi cho học sinh Việt Nam theo học các chương trình đào tạo quốc tế. Quan điểm tích hợp chưa được quán triệt đầy đủ trong thiết kế chương trình giáo dục.
Về phía giáo viên, Bộ trưởng GD-ĐT nhận định, quy định về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, tuyển dụng, sử dụng nhà giáo chưa đảm bảo yêu cầu xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Để khắc phục và phù hợp hơn với tình hình mới, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung 36 điều; bổ sung 3 điều mới; bãi bỏ 10 điều; bao quát hầu hết các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung đối với Luật Giáo dục, trong đó tập trung vào một số nội dung hướng vào các chính sách như: Chính sách học phí học sinh, sinh viên sư phạm; trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đối với nhà giáo; về kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận văn bằng nước ngoài; đầu tư và nguồn lực tài chính cho giáo dục; trách nhiệm của gia đình, nhà trường, xã hội…
Đáng chú ý, dự thảo Luật Giáo dục sửa đổi lần này sửa đổi, bổ sung quy định về học phí của học sinh, sinh viên sư phạm theo hướng học sinh, sinh viên sư phạm thực hiện việc đóng học phí như học sinh, sinh viên các ngành khác. Nhưng các em được vay tín dụng để trả học phí, ra trường nếu làm công tác giảng dạy sẽ được xóa khoản vay, còn nếu không làm công tác giảng dạy phải trả lại tiền vay. Việc sửa đổi này nhằm thực hiện đúng quan điểm ưu tiên, ưu đãi đối với người học sau khi tốt nghiệp làm việc trong ngành giáo dục, tránh lãng phí ngân sách nhà nước.
Cùng với đó, nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên. Theo đó, tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sĩ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Các quy định về trình độ chuẩn của giáo viên tiểu học, trung học cơ sở có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2026 và giao Chính phủ quy định lộ trình thực hiện việc chuẩn hóa đối với nhà giáo.
Như vậy, so với những lần dự thảo ban đầu, vấn đề tiền lương giáo viên đã được rút ra khỏi dự thảo Luật Giáo dục sửa đổi để trình Quốc hội, kể cả vấn đề miễn học phí cho học sinh trung học cơ sở (trước đó dự thảo nêu lương giáo viên sẽ được xếp cao nhất trong khối hành chính sự nghiệp). Bộ GD-ĐT cho biết, rút vấn đề lương giáo viên ra khỏi dự thảo luật vì Chính phủ đã có đề án cải cách lương.
Khẳng định vị thế nhà giáo
Thẩm tra tờ trình, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội tán thành đề xuất của Chính phủ về việc nghiên cứu sửa đổi toàn diện Luật Giáo dục.
Về chính sách thu hút học sinh, sinh viên sư phạm, đa số thành viên Ủy ban tán thành với đề xuất thay thế quy định miễn học phí cho học sinh, sinh viên sư phạm bằng tín dụng sư phạm để thực hiện chính sách theo đúng quan điểm ưu tiên, ưu đãi với đối tượng làm việc trong ngành giáo dục; tránh lãng phí ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, cần nghiên cứu kỹ cách thức tổ chức thực hiện nhằm bảo vệ quyền lợi cho người học; bổ sung quy định về việc hoàn trả đối với những người tự đóng học phí.
Dù thực hiện chính sách cấp tín dụng hay miễn học phí, các đại biểu đều cho rằng, cần tổ chức tốt công tác quy hoạch các cơ sở đào tạo sư phạm và nhân lực ngành giáo dục, làm căn cứ để đầu tư đúng và đủ, bảo đảm việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp; sửa đổi các quy định về tuyển sinh, đào tạo sư phạm; bổ sung các quy định nhằm nâng cao vị thế nhà giáo, xác định đúng vai trò, vị trí của nghề giáo để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành giáo dục trong thời gian tới.
Về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, Ủy ban cho rằng, các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung về nhà giáo trong Dự thảo Luật chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, vẫn chỉ là những quy định chung, chưa rõ yêu cầu và chính sách. Các quy định về vị thế, vai trò; điều kiện, tiêu chuẩn; nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn; sự đãi ngộ, tôn vinh còn chồng chéo.
Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo rà soát, sửa đổi chương Nhà giáo một cách căn cơ, tiếp tục khẳng định rõ vị thế của nhà giáo trong Luật; quy định đầy đủ, cụ thể hơn hệ thống chính sách tương xứng với vị thế đã được xác định; làm rõ mối quan hệ và trách nhiệm tương hỗ giữa Nhà nước - nhà giáo - người học, làm căn cứ để xây dựng Luật Nhà giáo và pháp luật có liên quan, bảo đảm việc xây dựng đội ngũ nhà giáo đảm đương tốt nhất trọng trách của mình.
Đặc biệt, đối với chính sách lương của nhà giáo, đề nghị bám sát Nghị quyết của Đảng để thể chế hóa trong Luật, tạo cơ sở để Chính phủ xây dựng các đề án cải cách tiền lương.
Đối với vấn đề chi phí giáo dục, học phí, Ủy ban tán thành tính đúng, đủ chi phí dịch vụ giáo dục, làm căn cứ để đầu tư bảo đảm chất lượng. Tuy nhiên, cần nghiên cứu để làm rõ trách nhiệm về tài chính của Nhà nước tương ứng với từng cấp học và trình độ đào tạo; bổ sung cơ chế và tiêu chí để Nhà nước khi cấp học phí phải cấp đủ chi phí dịch vụ giáo dục cơ bản; cơ chế giám sát của Nhà nước và xã hội đối với học phí các cơ sở giáo dục ngoài công lập; làm rõ nội hàm, tiêu chí, điều kiện triển khai “dịch vụ giáo dục chất lượng cao”.