【bxh u19 châu âu】Công nghiệp ô tô

cong nghiep o to bo cong thuong muon co che thu hut dau tu tu cac tap doan da quoc gia

Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đã phát triển khá nhanh trong 2 năm trở lại đây. Ảnh Nguyễn Hà

Sản xuất trong nước đáp ứng 70% nhu cầu

Một trong những nội dung quan trọng liên quan đến ngành công nghiệp ô tô vừa được Bộ Công Thương,ôngnghiệpôtôbxh u19 châu âu thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, gửi tới Quốc hội. Cơ quan này đánh giá: ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đã phát triển khá nhanh trong 2 năm trở lại đây.

Năm 2015, sản xuất, lắp ráp xe ô tô trong nước đạt trên 200 nghìn xe/năm, tốc độ tăng so với năm 2014 đạt 51%. Năm 2016, sản lượng tiếp tục tăng mạnh, đạt trên 283,3 nghìn xe/năm. Một số loại sản phẩm đã xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Mỹ,... Ngành ô tô đã đóng góp hàng tỷ USD vào ngân sách Nhà nước, góp phần giảm nhập siêu. Đồng thời tạo ra việc làm trực tiếp cho hơn 120 nghìn lao động.

Tính đến năm 2018, ngành sản xuất ô tô trong nước có khoảng 173 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp, trong đó 56 doanh nghiệp sản xuất xe từ linh kiện rời, 117 doanh nghiệp sản xuất từ xe cơ sở. Đa phần các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Một số doanh nghiệp nội địa đã tham gia sâu vào chuỗi sản xuất ô tô toàn cầu.

Hiện tổng công suất lắp ráp thiết kế của ô tô Việt Nam vào khoảng 500 nghìn xe/năm (khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 47%, doanh nghiệp trong nước chiếm khoảng 53%).

Xe sản xuất, lắp ráp trong nước đáp ứng khoảng 70% nhu cầu xe trong nước, với tổng sản lượng của thị trường xe du lịch khoảng 210 nghìn xe/năm trong năm 2016, trong đó sản lượng ô tô con khoảng trên 160 nghìn chiếc.

Các chủng loại xe tải, xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, đạt mục tiêu đề ra đáp ứng về cơ bản thị trường nội địa (xe tải nhỏ đến 07 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa trung bình 50%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 45% đến 50% vượt chỉ tiêu so với quy hoạch).

cong nghiep o to bo cong thuong muon co che thu hut dau tu tu cac tap doan da quoc gia

Công ty ô tô Trường Hải đã đầu tư và khánh thành Nhà máy sản xuất ô tô mang thương hiệu Mazda. Đây là nhà mày được đánh giá là hiện đại nhất khu vực.

Nội địa hóa chưa đạt mục tiêu

Tuy nhiên, Bộ Công Thương thừa nhận: Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam vẫn chưa tạo được sự hợp tác - liên kết và chuyên môn hoá giữa các doanh nghiệp trong sản xuất - lắp ráp ô tô và sản xuất phụ tùng linh kiện; chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn do đó tỷ lệ nội địa hóa của một số dòng xe còn đạt thấp so với mục tiêu đề ra.

Đặc biệt mục tiêu về tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi đã thất bại. Cụ thể, mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005, 60% vào năm 2010, tuy nhiên đến nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%. Trong khi, tỷ lệ nội địa hóa của các nước trong khu vực trung bình đã đạt được 65-70% (Thái Lan đạt tới 80%). Điều này khiến sản phẩm trong nước khó lòng cạnh tranh với thị trường khu vực.

Các sản phẩm đã được nội địa hóa mang hàm lượng công nghệ rất thấp như: săm, lốp ô tô, ghế ngồi, gương, kính, bộ dây điện, ắc-quy, sản phẩm nhựa... Có tới 80-90% nguyên liệu chính cho sản xuất linh kiện như thép hợp kim, hợp kim nhôm, hạt nhựa, cao su kỹ thuật cao hiện phải nhập khẩu. Vật liệu làm khuôn mẫu chủ yếu cũng phải nhập khẩu.

Hàng năm, các doanh nghiệp phải nhập khẩu khoảng 2-3,5 tỷ USD các linh kiện, phụ tùng phục vụ cho sản xuất lắp ráp và sửa chữa xe.

Năng lực yếu kém của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phụ trợ cũng là điều đáng lưu tâm. Các nhà sản xuất khuôn mẫu hoặc có quy mô không lớn hoặc thiếu sự liên kết phối hợp để phát triển. Các doanh nghiệp sản xuất phôi và chi tiết đúc cho ngành chưa nhiều và tỉ lệ sai hỏng còn cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành.

Chính vì vậy, tuy không được bộ này đề cập trong báo cáo nhưng có một thực tế đang diễn ra là giá xe ô tô ở Việt Nam sau khi thuế nhập trong ASEAN về 0% từ đầu 2018 đã không rẻ hơn như kỳ vọng.

cong nghiep o to bo cong thuong muon co che thu hut dau tu tu cac tap doan da quoc gia

Dây chuyền sản xuất ô tô hiện đại của Hyundai Thành Công, doanh nghiệp Việt Nam chuyển từ nhập khẩu sang sản xuất lắp ráp trong nước

Nhà đầu tư ngoại không mặn mà

Nguyên nhân ngành ô tô chưa đạt như kỳ vọng, theo Bộ Công Thương, Việt Nam là nước đi sau trong khu vực (so với các nước như Thái Lan, Indonesia, Malaysia). Chuỗi sản xuất ngành ô tô do các Tập đoàn đa quốc gia chi phối. Họ quyết định hoàn toàn việc nghiên cứu - phát triển, địa điểm sản xuất, phương thức bán hàng...

Trong khi đó, trước khi đầu tư dự án lắp ráp tại Việt Nam, các Tập đoàn ô tô lớn của Nhật Bản, Hoa Kỳ... đều đã đầu tư các dự án sản xuất ô tô con có qui mô rất lớn trong khu vực ASEAN. Công suất các dự án sản xuất ô tô con thường được tính toán cho thị trường khu vực, chứ không tính riêng cho quốc gia đặt nhà máy sản xuất, vì vậy các Tập đoàn không có các dự án đầu tư qui mô lớn ở Việt Nam do qui mô thị trường quá nhỏ, bằng 1/10 Thái Lan, 1/5 Indonessia.

Chính vì thế, định hướng ô tô thời gian tới, Bộ Công Thương cho rằng cần tận dụng cơ hội thị trường do các chính sách vừa ban hành, tập trung hỗ trợ để thúc đẩy nhanh dự án của các doanh nghiệp trong nước như Công ty cổ phần ô tô Trường Hải (Thaco), Công ty cổ phần Tập đoàn Thành Công, Tập đoàn Vingroup (VinFast ) và các dự án khác để gia tăng sản lượng ô tô sản xuất, lắp ráp.

cong nghiep o to bo cong thuong muon co che thu hut dau tu tu cac tap doan da quoc gia

Nhà máy sản xuất ô tô Vinfast đang được Tập đoàn Vingroup đầu tư với tổng công suất lên tới 250.000 xe/năm

Báo cáo Quốc hội, cơ quan này muốn có thêm nhiều chính sách đặc thù cho ngành ô tô. Như trình Quốc hội ban hành sửa đổi áp dụng mức thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe có tỷ lệ nội địa hóa cao (không đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với phần giá trị tạo ra trong nước, góp phần giảm giá thành xe sản xuất trong nước); Xây dựng thí điểm chuỗi cung ứng ngành ô tô cho các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô trong và ngoài nước…

Đồng thời Bộ Công Thương cũng muốn có cơ chế chính sách thu hút đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia đầu tư các dự án có quy mô lớn tại Việt Nam, đặc biệt tập trung vào các thương hiệu và dòng xe chưa có tại khu vực ASEAN, nhằm tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước tham gia sâu nhất vào chuỗi sản xuất ô tô đa quốc gia.

Đối với xe chở người đến 9 chỗ ngồi (xe con): Định hướng cho giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 là tập trung vào phát triển các sản phẩm xe con phù hợp với người Việt Nam và xu hướng phát triển xe con của thế giới (xe thân thiện môi trường: eco car, hybrid, xe điện.…) gồm: Xe cá nhân, kích thước nhỏ, tiêu thụ ít năng lượng, thân thiện với môi trường và giá cả phù hợp với người tiêu dùng Việt Nam. Mục tiêu đến năm 2020 - 2025, xe sản xuất trong nước đáp ứng 60 - 70% nhu cầu thị trường và nội địa hóa đến 2020 đạt từ 35 - 40%, đến năm 2021 - 2025 đạt 40 - 45%.
- Đối với xe tải và xe khách: Tập trung vào phát triển các chủng loại sản phẩm sản xuất trong nước có lợi thế và các sản phẩm phục vụ nông nghiệp, nông thôn; các loại xe chuyên dùng, gồm có: xe tải nhỏ đa dụng phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn; xe khách tầm trung và tầm ngắn; xe chở bê tông, xi-téc và đặc chủng an ninh - quốc phòng; xe nông dụng đa chức năng.
- Về công nghiệp hỗ trợ: Định hướng cho thời gian tới là tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp lớn nước ngoài trong việc sản xuất linh kiện và phụ tùng, trong đó tập trung vào các bộ phận quan trọng, hàm lượng công lượng công nghệ cao (động cơ - hộp số - bộ truyền động) để phục vụ nhu cầu của thị trường trong nước, thay thế nhập khẩu, tiến tới xuất khẩu.