【heidenheim vs】Ngày xuân nói chuyện nhuận bút thời xưa

时间:2025-01-11 05:18:05来源:88Point 作者:La liga

“Nhuận bút” dành cho việc sưu tầm

Năm 1768,y xuheidenheim vs niên hiệu Cảnh Hưng thứ 29, đời Lê Hiển Tông, chúa Trịnh Sâm xuống lệnh tìm kiếm bộ: Thiên Nam dư hạ tập. Bộ sách này là một công trình tập thể, do Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung, Phó đô ngự sử Quách Đình Bảo và Đông các hiệu thư Đỗ Nhuận cùng Hàn lâm viện thị thư Đàm Văn Lễ khởi thảo từ năm 1483, theo lệnh của Lê Thánh Tông. Sách gồm 100 cuốn, nói về điều lệ, điển chương, chính sự triều Lê. Sở dĩ có lệnh này là vì đến lúc đó bộ sách đã bị tản mát mất nhiều. Khi ấy, Ngô Thì Sĩ là Hiến sát sứ Thanh Hoa tìm được hơn 20 cuốn đem dâng, được triều đình thưởng cho 30 lạng bạc.

“Nhuận bút” cho một công trình biên soạn

Đó là trường hợp bộ sách Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn. Để soạn bộ sách này, Lê Quý Đôn đã phải bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức sưu tầm tư liệu (không chỉ tác phẩm mà cả thân thế và sự nghiệp của tác giả) rồi ghi chép, phân loại, đối chiếu, so sánh và sắp xếp lại. Theo bài Lệ ngôn (của tác giả) nói về nội dung và thể lệ làm sách, thì sách này được soạn theo lệnh của triều đình (phụng biên) khi Lê Quý Đôn đang giữ chức Hàn lâm viện thừa chỉ. Đây là một “Hợp tuyển thơ” 5 thế kỷ, gồm trên dưới 3.000 bài thơ của hơn 200 tác giả từ triều Lý đến đời Tương Dực đế (nhà Lê). Sách làm xong năm Mậu Tý, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 29 (1768), đời Lê Hiển Tông. Khi dâng lên ngự lãm, ông được Lê Hiển Tông khen và thưởng cho 20 lạng bạc.

Đối với trường hợp tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí, bộ Bách khoa toàn thư đầu tiên ở nước ta của Phan Huy Chú (1782-1840) thì lại khác. Soạn bộ sách này, Phan Huy Chú phải bỏ ra 10 năm (1809-1819), từ khi ông còn đang học để đi thi. Như vậy, việc “làm sách” của ông là tự giác, không theo lệnh của ai và cũng không ai bắt buộc. Sách gồm 49 quyển phân theo các chí: 1) Dư địa chí; 2) Nhân vật chí; 3) Quan chức chí; 4) Lễ nghi chí; 5) Khoa mục chí; 6) Quốc dụng chí; 7) Hình luật chí; 8) Binh chế chí; 9) Văn tịch chí; 10) Bang giao chí... Là người trọng thực học, năm Tân Tỵ (1821) vua Minh Mệnh đã cho vời ông về kinh làm Biên tu Quốc tử giám, mặc dù về học vị, 2 lần đi thi ông chỉ đỗ tú tài (vì ông ở làng Thày, lại đỗ tú tài 2 lần nên để tránh gọi thẳng tên, người ta còn gọi ông là ông “Kép Thày”). Bộ Lịch triều hiến chương loại chí đã được Minh Mệnh khen thưởng (cả tiền và hiện vật, cái gì cũng 30, chỉ có áo là 1, gồm: 30 lạng bạc, 30 ngọn bút lông, 30 thoi mực và 1 chiếc áo sa).

“Nhuận bút” bằng đòn roi

Để thử tài số phi tần mới tiến cung, năm Mậu Thân - 1848, vua Tự Đức đã ra một đề là “Tảo mai” (hoa mai buổi sớm) và bắt mỗi người phải làm một bài thơ. Bài của tiệp dư Nguyễn Nhược Thị Bích đã được vua Tự Đức cho điểm cao nhất và thưởng 20 nén bạc - với mức “nhuận bút” của một bài thơ như thế này thì phải nói là rất cao. Nguyễn Nhược Thị Bích (1830-1909) tự Lang Hoàn, người huyện An Phước, tỉnh Ninh Thuận, nổi tiếng là người đủ cả công, dung, ngôn, hạnh, năm 19 tuổi, bà được tiến cung. Bà là thầy dạy của Kiến Phúc và Đồng Khánh khi hai ông vua này còn nhỏ. Năm Ất Dậu - 1885, bà hộ giá hai cung theo vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị phát động phong trào Cần Vương. Tác phẩm Hạnh thục ca (dài 1.036 câu) bằng chữ Nôm của bà được viết trong thời gian này.

Một trường hợp khác là tác phẩm Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát (1827-1876). Tác phẩm này được viết vào năm Canh Thân, niên hiệu Tự Đức thứ 13 (1860) khi Lê Ngô Cát làm việc ở Quốc sử quán, gồm 1.887 câu, chép việc từ đời Hồng Bàng đến hết thời hậu Lê. Đây là tập sử ca thứ hai được viết bằng chữ Nôm ở nước ta, sau Thiên Nam ngữ lục. Xem xong tập diễn ca, vua Tự Đức phải chịu tài thơ của Lê Ngô Cát, nhưng không hiểu sao chỉ thưởng cho tác giả có một vuông đũi với 2... đồng, một giải thưởng có tính tượng trưng hơn là giá trị vật chất! Đã đành rằng “một nén tiền công không bằng một đồng tiền thưởng”, hơn nữa, đây lại là của vua ban, nhưng... một vuông đũi... thì đúng là chỉ đủ may được... cái khố! Vốn có óc khôi hài, Lê Ngô Cát liền tức cảnh làm 2 câu thơ:

Vua khen thằng Cát có tài
Ban cho cái khố với hai đồng tiền.

Tưởng làm là chỉ để đọc cho vui, nào ngờ chuyện đến tai vua Tự Đức. Kết quả Lê Ngô Cát được nhận thêm 30 roi nhuận bút vào mông, vì tội làm 2 câu thơ có ý xược. Nhưng thế cũng còn may, nếu bị khép vào tội “khi quân” thì Lê Ngô Cát phải chết là cái chắc.

Một trường hợp khác nữa là tác phẩm Truyện Kiều nổi tiếng của đại thi hào Nguyễn Du. Tuy là người hay bắt bẻ, đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, vua Tự Đức cũng phải công nhận đúng là: “hàng hàng châu ngọc lời lời gấm thêu”. Nhưng sau đó, chẳng hiểu do suy diễn hay do sự xúi bẩy của đám bồi thần, vua Tự Đức bỗng dưng đùng đùng nổi giận: “Nếu Tố Như (tên tự của Nguyễn Du) mà còn sống, phải nọc nằm xuống đánh cho 30 roi!”. Nguyên nhân của sự nổi giận này là do câu: “Thì con người ấy ai cầu làm chi” (đoạn Kiều nói với Kim Trọng về chữ “hạnh”, một trong tứ đức của người con gái, khi Kiều tìm sang với Kim Trọng trong dịp Vương ông, Vương bà và 2 em về bên ngoại ăn mừng sinh nhật) đã được ngắt thành: “Thì/con người ấy/ai cầu làm chi” và được hiểu theo nghĩa: “Một con người như Tự Đức thì chẳng ai cầu làm gì!” (tên húy của Tự Đức là Nguyễn Phúc Thì). Như vậy là tác giả của Truyện Kiều đã mắc vào tội vừa phạm húy lại vừa phạm thượng! Chẳng hiểu trong chuyện này, Tự Đức nói thật hay nói đùa, chứ nếu quy tội “vừa phạm húy lại vừa phạm thượng” cho một tác phẩm được viết từ lúc mình còn chưa sinh ra (Nguyễn Du mất năm 1820, Tự Đức sinh năm 1829) thì quả là... quá vô lý. 

“Nhuận bút” viết “theo đơn đặt hàng”

Để phục vụ âm mưu xâm lược nước ta, năm 1886, toàn quyền Pôn Be (Paul Bert) đã cho tổ chức một cuộc thi tìm hiểu về Việt Nam. Những người tham dự cuộc thi phải viết một cuốn sách, trong đó có những số liệu cụ thể về cương vực, địa giới hành chính cũng như tài nguyên, sản vật, phong tục, tập quán... của các dân tộc đang sinh sống trên đất Việt Nam, với giải nhất là 800 đồng và giải nhì là 200 đồng. Vua Đồng Khánh đã hạ lệnh xuất 500 đồng nữa thêm vào cho giải, nâng tổng tiền thưởng lên 1.500 đồng, trong đó 1.200 đồng dành cho giải nhất và 300 đồng cho giải nhì.

Mặc dù treo giải cao như vậy, song cuộc thi đã hoàn toàn thất bại vì không được một ai hưởng ứng! Trước tình hình đó, tháng 10-1886, theo sáng kiến của Viện cơ mật, vua Đồng Khánh đã xuống chiếu cho Hoàng Hữu Xứng phải viết cuốn sách này. Lúc đó Xứng đang mang hàm Quang lộc tự khanh, lãnh Thị lang bộ Lại. Và để giúp Xứng lấy tư liệu, Đồng Khánh đã cấp cho Xứng ấn Khâm phái quan phòng, cho phép Xứng được vào làm việc ở Nội các và Sở tu thư thuộc Quốc sử quán.

Tháng 12-1886, theo đề nghị của Xứng, sách sẽ có tên là Đại Nam cương giới vựng biên và trong cuốn sách cương giới nước ta chỉ được ghi chép từ Bình Thuận trở ra, vì “sáu tỉnh Nam kỳ nay (tức là khi đó) đã là quản hạt của nước Đại Pháp”! Những đề nghị này đã được Đồng Khánh chuẩn y. Tháng 4-1887, sách Đại Nam cương giới vựng biên viết xong, gồm 7 quyển và 1 bức bản đồ. Nhuận bút cho cuốn sách, ngoài khoản tiền thưởng ra, Xứng còn được thực thụ hàm Thị lang bộ Lại, thự Tả tham tri, sung Toản tu Quốc sử quán.

Trần Bích Hạnh(tổng hợp)

相关内容
推荐内容