Tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu QH,ảnlýchặtvốnnhànướcđầutưranướcngoànhận định juve Ủy ban Thường vụ QH đã chỉnh lý quy định tại một số điều như: Điều 29 về đầu tư ra nước ngoài của DN; Điều 42 về quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và Điều 44 về quyền, trách nhiệm của Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty tại DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ... theo hướng làm rõ hơn trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu, Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty đối với việc đầu tư ra nước ngoài của DN.
Việc đầu tư ra nước ngoài của DN, ngoài việc tuân thủ các quy định tại dự thảo Luật này còn phải thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư, về quản lý ngoại hối và quy định khác của pháp luật có liên quan. Đối với dự án đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của QH, Thủ tướng Chính phủ thì cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định đầu tư sau khi QH, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư.
Trong thực tế các DN hiện nay đã sử dụng vốn để đầu tư ra nước ngoài, nhưng chưa có quy định ràng buộc chặt chẽ nội dung này. Dự án Luật quy định, khi đầu tư vốn của DN ra nước ngoài phải đúng mục tiêu, có hiệu quả; việc sử dụng vốn, tài sản của DN tại nước ngoài phù hợp với quy định của nước sở tại.
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 9 tháng đầu năm 2014, các dự án đầu tư đã có mặt ở 23 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng vốn đăng ký mới của nhà đầu tư Việt Nam là hơn 1 tỷ USD. Lũy kế tính đến hết tháng 9-2014, Việt Nam có 905 dự án đầu tư mới đã được cấp phép đầu tư sang 63 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm phía Việt Nam đạt 19,1 tỷ USD.
Việc các DN Việt Nam ngày càng đầu tư mở rộng tại các thị trường mới cho thấy cần thiết phải có những quy định cụ thể quản lý vốn nhà nước đầu tư ra nước ngoài. Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính- Ngân sách của QH Đinh Văn Nhã, quy định về sử dụng vốn nhà nước để đầu tư ra nước ngoài còn chưa chặt chẽ và chưa rõ thẩm quyền.
“Nếu từ nay đến năm 2020, chúng ta không có quyết tâm chính trị, xác định rõ cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước là một cơ quan chuyên trách thì chắc là sẽ thực hiện được như theo quy định của Chính phủ như hiện nay. Như vậy, đầu tư ra nước ngoài rất phân tán. Tôi nghĩ nó không phù hợp với thẩm quyền quyết định thu, chi ngân sách”, ông Đinh Văn Nhã nói.
Theo ông Đinh Văn Nhã: “Nếu dùng vốn nhà nước đầu tư ra nước ngoài thì chúng phải coi là một khoản chi đầu tư phát triển của NSNN, thẩm quyền phải phù hợp với quyết định của Hiến pháp, mà cao nhất là QH. Nếu QH ủy quyền thì Ủy ban Thường vụ QH, hoặc Thủ tướng Chính phủ (không có một cơ quan đại diện nào khác để xem xét đầu tư ra nước ngoài), như thế mới làm chặt được, mới đúng thẩm quyền, không vi hiến. Đầu tư ra nước ngoài là dùng tiền của dân để đầu tư thì phải quy định thận trọng hơn, chặt chẽ hơn”.
“Hình thức đầu tư vốn của DN ra nước ngoài: a) Đầu tư vốn để thành lập DN ở nước ngoài do DN sở hữu 100% vốn điều lệ; b) Góp vốn để thành lập DN tại nước ngoài; c) Mua cổ phần, phần vốn góp tại DN ở nước ngoài. Trách nhiệm của Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty: a) Xây dựng dự án đầu tư ra nước ngoài của DN bảo đảm đúng mục tiêu, hiệu quả, có tính đến các yếu tố rủi ro và trình cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, phê duyệt; b) Ban hành quy chế hoạt động và quản lý, sử dụng vốn, tài sản của DN tại nước ngoài phù hợp với quy định của nước sở tại, bảo đảm quản lý chặt chẽ, chống thất thoát; c) Giám sát, đánh giá thường xuyên và chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư ra nước ngoài của DN; d) Báo cáo định kỳ 6 tháng và hằng năm cho cơ quan đại diện chủ sở hữu về tiến độ thực hiện đối với dự án đang trong quá trình đầu tư; về hiệu quả đầu tư đối với dự án đang hoạt động; đ) Báo cáo kịp thời và đề xuất giải pháp với cơ quan đại diện chủ sở hữu trong trường hợp phát sinh vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài của DN; e) Việc chuyển lợi nhuận, thu nhập khác và thu hồi vốn khi kết thúc dự án đầu tư tại nước ngoài về nước hoặc tiếp tục đầu tư ở nước ngoài thực hiện theo điều lệ, quy chế tài chính của DN, quy định của Luật này, pháp luật về đầu tư và quy định khác của pháp luật có liên quan”. (Trích dự thảo Luật) |