当前位置:首页 > Ngoại Hạng Anh

【ket qua bong da chau a】Chứng khoán tuần: Cơ hội

chứng khoán tuần

Tuy nhiên biến động của thị trường Việt Nam tuần qua có điểm khác so với những lần trước,ứngkhoántuầnCơhộket qua bong da chau a là có sự đồng nhịp với biến động toàn cầu. Sau nhiều năm, thị trường Việt Nam đã lại có mối liên hệ rất chặt với thị trường thế giới.

Tuần lễ hỗn loạn toàn cầu

Thị trường chứng khoán toàn cầu đã trải qua một tuần giao dịch cực kỳ biến động. Hầu hết các thị trường chứng khoán lớn trên thế giới cũng như khu vực đều sụt giảm nghiêm trọng.

Có thể điểm qua một số thị trường chính lao dốc mạnh: Chứng khoán Mỹ với đại diện là S&P 500 sụt giảm 5,16% trong tuần. Chứng khoán Nhật giảm 8,13%; Chứng khoán Anh giảm 4,72%; Chứng khoán Pháp giảm 5,33%; Chứng khoán Đức giảm 5,3%; Trung Quốc giảm 9,6%; Hồng Kông giảm 9,49%; Singapore giảm 4,32%; Malaysia giảm 2,71%; Thái Lan giảm 2,24%...

Thống kê sơ bộ ở trên cũng cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm thuộc nhóm mạnh nhất thế giới.

Sự hỗn loạn toàn cầu khởi nguồn từ biến động giảm đột ngột trên thị trường chứng khoán Mỹ khi lợi suất trái phiếu 10 năm đột nhiên tăng vọt. Điều này làm gia tăng lo ngại về triển vọng lạm phát tăng nhanh hơn sẽ khiến lãi suất cơ bản của Mỹ phải tăng lên.

Thực tế các yếu tố cơ bản của thị trường chứng khoán Mỹ vẫn không có gì xấu, doanh nghiệp đạt lợi nhuận rất khả quan. Tuy nhiên thị trường chứng khoán Mỹ cũng giống như thị trường Việt Nam, đã trải qua giai đoạn tăng rất mạnh trước đó nên việc điều chỉnh mạnh hơn bình thường. Mức nới lỏng tiền tệ giảm xuống thì nguồn vốn giá rẻ cũng giảm đi, trong khi đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến thị trường chứng khoán Mỹ tăng mạnh nhiều năm qua.

Các thị trường chứng khoán khác hầu như đều chịu ảnh hưởng từ biến động tại Mỹ do dòng vốn đầu tư có sự liên thông. Ngay như tại thị trường Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài cũng đã có động thái bán ra mạnh hơn trong tuần qua, chỉ là mức mua vào rất lớn nên không phản ánh rõ nét. Giao dịch “cứu vãn” tình thế tuần qua chính là thương vụ mua ròng hơn 4.512 tỷ đồng của VRE. Nếu không tính đến giao dịch cá biệt này thì nhà đầu tư nước ngoài thực tế đã bán ròng hơn 280 tỷ đồng.

Đối với thị trường Việt Nam, ngoài các yếu tố mang tính kỹ thuật như đà tăng kéo dài mà chưa có điều chỉnh thật sự, mức độ sử dụng margin lớn, sắp tới kỳ nghỉ Tết kéo dài, thì biến động của thị trường không xuất phát từ yếu tố nền tảng bất lợi. Thống kê cho thấy kết quả kinh doanh quý 4/2017 của các công ty niêm yết trên cả 2 sàn rất khả quan. Trên sàn HSX, có khoảng 97% số công ty niêm yết có lãi và trên HNX con số này là 92%. Doanh thu của các công ty niêm yết tăng 19%, lợi nhuận tăng 26,5%, trong đó lợi nhuận của khối ngân hàng tăng rất mạnh ở mức trên 60% và khối bất động sản hơn 40%.

10 cổ phiếu biến động tăng/giảm lớn nhất trên HSX trong tuần

Mã CK

Giá đóng cửa ngày 8/2

Giá đóng cửa ngày 2/2

Mức giảm (%)

Mã CK

Giá đóng cửa ngày 8/2

Giá đóng cửa ngày 2/2

Mức tăng (%)

KSA

0.92

1.29

-28.68

NVN

1.4

1.2

16.67

PVD

19.9

26.5

-24.91

TAC

52.5

46

14.13

CDO

1.26

1.6

-21.25

SVT

6.2

5.46

13.55

HNG

6.6

8.3

-20.48

GTA

15.95

14.8

7.77

GAS

96.8

121

-20

DTT

10.5

9.77

7.47

PXS

6.86

8.5

-19.29

AGM

8.68

8.1

7.16

HAG

6.5

8.05

-19.25

BIC

42.5

39.9

6.52

HVG

4.71

5.77

-18.37

TMT

8.69

8.2

5.98

QCG

12.05

14.65

-17.75

TMP

33.9

32

5.94

VHG

0.84

1.02

-17.65

PGI

19

18.08

5.08

10 cổ phiếu biến động tăng/giảm lớn nhất trên HNX trong tuần

Mã CK

Giá đóng cửa ngày 8/2

Giá đóng cửa ngày 2/2

Mức giảm (%)

Mã CK

Giá đóng cửa ngày 8/2

Giá đóng cửa ngày 2/2

Mức tăng (%)

BDB

4.9

7.5

-34.67

LCS

5

3.3

51.52

ATS

36.8

48.3

-23.81

KSD

4.8

3.5

37.14

TV3

25.5

33.3

-23.42

NST

12.8

10

28

SVN

2.3

3

-23.33

KST

17.9

15

19.33

PVS

20.6

26.8

-23.13

DHT

66.6

56.1

18.72

KDM

2.4

3.1

-22.58

NGC

11.2

9.5

17.89

KHL

0.4

0.5

-20

TTC

22

19.4

13.4

PVC

9.3

11.6

-19.83

LO5

3.9

3.5

11.43

PVB

16.1

19.9

-19.1

SCJ

3.1

2.8

10.71

ALV

8.8

10.8

-18.52

VE1

17.6

15.9

10.69

Bình ổn trở lại

Phiên giao dịch cuối tuần qua VN-Index đóng cửa vẫn sụt giảm 1,9% nhưng thị trường toàn cầu sau đó đã có dấu hiệu bình ổn nhất định. Chứng khoán Mỹ - thị trường giao dịch muộn nhất và là nguồn cơn của biến động – đóng cửa ngày cuối tuần đã phục hồi tăng mạnh. Chỉ số S&P 500 tăng 1,49%, Dow Jones tăng 1,38%...

Mức phục hồi cuối tuần của chứng khoán Mỹ chưa hẳn là dấu hiệu kết thúc nhịp biến động cực mạnh hiện tại, nhưng ít nhất đó vẫn là tín hiệu ổn định hơn. Trước đó chứng khoán Mỹ cũng đã có một phiên phục hồi, sau đó lại giảm thêm. Vì vậy nếu phiên tăng cuối tuần qua chưa phải là đáy, nguy cơ biến động lớn vẫn còn.

Nhưng nếu thị trường Mỹ thật sự không giảm thêm, đó sẽ là cơ hội rất lớn cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Như đã nói ở trên, thị trường Việt Nam không sụt giảm do yếu tố cơ bản mà chỉ là điều chỉnh kỹ thuật ngắn hạn. Mức điều chỉnh đột ngột mạnh như vậy là do tác động từ thị trường chứng khoán thế giới. Khi thị trường thế giới ổn định trở lại, thị trường Việt Nam cũng sẽ có cơ hội phục hồi.

Một tin tích cực cuối tuần qua là việc áp dụng tỷ lệ margin mới có khả năng cao sẽ được lùi lại sau tháng 3/2018. Đây là một thay đổi mang tính khích lệ tâm lý là chính, nhưng vẫn có hiệu quả tốt ở thời điểm mà thị trường tỏ ra hoang mang và lo ngại quá mức.

Điều quan trọng hơn là các lo ngại về tác động từ bên ngoài sẽ tiếp tục giảm đi. Hai yếu tố dễ nhận thấy nhất là các thị trường chứng khoán quan trọng không giảm mạnh thêm nữa; và nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục mua vào tích cực trên thị trường trong nước. Đây là hai yếu tố mang tính khách quan không lường trước được. Vì vậy thị trường trong nước sẽ tiếp tục trong trạng thái chờ đợi ở những phiên giao dịch cuối cùng trước kỳ nghỉ.

Quy mô giao dịch toàn thị trường 2 tuần vừa qua

Ngày

Tổng giá trị khớp lệnh (tỉ đồng)

Tổng giá trị Nước ngoài mua (tỉ đồng)

Tổng giá trị Nước ngoài bán (tỉ đồng)

29.1.2018

8,755.0

943.8

1161.3

30.1.2018

9,393.8

1045.0

1266.5

31.1.2018

9,988.2

1258.7

1054.6

1.2.2018

7,630.9

902.1

790.8

2.2.2018

5,894.6

787.5

737.9

5.2.2018

7,666.7

737.5

660.8

6.2.2018

11,121.6

1493.4

1633.7

7.2.2018

6,121.4

669.7

676.8

8.2.2018

4,227.1

581.3

340.8

9.2.2018

5,852.3

627.1

969.9

Trọng Nghĩa

分享到: