BIDV được công nhận đạt chuẩn Basel II trước thời hạn | |
Các ngân hàng đã sẵn sàng với công nghệ chip | |
Chi tiêu qua thẻ được hoàn tiền tới 20% | |
Giá vàng và USD tiếp tục "lình xình" đi ngang |
Các ngân hàng sẽ tiếp tục có sự phát triển trong năm 2020. |
Kỳ vọng vượt đích
Còn hơn nửa tháng nữa là hết năm 2019 và phải sang đến quý I sang năm,ânhàngtrướcngưỡngcửaTiếpđàtăngtrưởlịch thi đấu bóng đá ngoại hạng anh tối nay các ngân hàng mới có thể tổng kết kết quả kinh doanh của cả năm 2019 cũng như đưa ra chỉ tiêu cho hoạt động kinh doanh năm 2020. Tuy nhiên, chỉ cần nhìn vào kết quả quý III của các ngân hàng thương mại, cũng đã thấy được bức tranh sáng rõ trong hoạt động ngân hàng cả năm 2019 và kỳ vọng tươi sáng cho năm 2020, bởi không ít ngân hàng đã gần cán đích lợi nhuận.
Cụ thể, Saigonbank ghi nhận lợi nhuận trước thuế 220 tỷ đồng trong 9 tháng, tăng trưởng tới 81% so với cùng kỳ. So với kế hoạch lợi nhuận chỉ 175 tỷ đồng đặt ra từ đầu năm, Saigonbank đã vượt 25,7%. Tại Eximbank, ngân hàng này đã hoàn thành vượt 2,3% kế hoạch cả năm, khi đạt lợi nhuận trước thuế hơn 1.102 tỷ đồng trong 9 tháng, trong khi kế hoạch cả năm là 1.077 tỷ đồng. Với nhiều ngân hàng khác, tuy chưa hoàn thành sớm kế hoạch cả năm, nhưng cũng đã hoàn thành tới 80-90% kế hoạch như: VietinBank, Sacombank, Vietcombank, Agribank, LienVietPostBank, Vietbank…
Ở chiều ngược lại, vẫn còn một số ngân hàng còn cách vạch đích khá xa như VietAbank mới hoàn thành 54,1% kế hoạch, OCB hoàn thành được 60,7%, BIDV là 68,2% kế hoạch… Nhưng theo các chuyên gia, quý IV luôn là mùa vụ kinh doanh sôi động nhất trong năm nên sẽ tạo ra những kết quả tốt để các ngân hàng hoàn thành vượt mức đề ra.
Báo cáo của Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (SSI) đã dự báo rất tích cực về triển vọng lợi nhuận của nhiều ngân hàng trong năm 2019. Như tại Vietcombank, ngân hàng này công bố lợi nhuận trước thuế trong 3 quý đầu năm lên đến 17.613 tỷ đồng, tăng trưởng tới 50,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Với kết quả này, SSI ước tính lợi nhuận trước thuế của Vietcombank đạt 23.165 tỷ đồng, tăng 26,8% so với năm ngoái, trong khi kế hoạch đặt ra từ đầu năm của ngân hàng này là 20.500 tỷ đồng.
Có được những kết quả nêu trên là do các biện pháp tái cơ cấu danh mục cho vay, gia tăng chuyển dịch sang tín dụng bán lẻ, đẩy mạnh hoạt động dịch vụ, đa dạng hóa nguồn thu mà hệ thống ngân hàng đã đặt ra từ đầu năm. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng đã giảm mạnh chi phí dự phòng rủi ro. Nhưng trong năm 2019, mối quan tâm của nhiều ngân hàng là về sự hạn chế tăng trưởng tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đặt ra, khiến nhiều lo ngại sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận ngân hàng. Tuy nhiên, phía NHNN đã tuyên bố sẽ nới hạn mức tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng sớm hoàn thành theo chỉ tiêu an toàn vốn và thanh khoản theo Hiệp ước Basel II. Chính vì thế, tính đến đầu tháng 12/2019, 17 ngân hàng đã được NHNN công nhận hoàn thành Basel II cũng là tiền đề hữu ích để các ngân hàng thương mại “vượt khó”, tiến tới hoàn thành chỉ tiêu lợi nhuận trong năm 2019 và tăng trưởng mạnh cho năm 2020.
Tiếp tục tăng trưởng
Trong những tháng cuối năm, NHNN đã ban hành một loạt chính sách mới, trên diện rộng bao phủ hoạt động của các tổ chức tín dung. Đó là những quy định mới về trung gian thanh toán, ví điện tử; về cho vay tiêu dùng, giới hạn cho vay tiêu dùng bằng tiền mặt; về cơ chế và mục đích cho vay tái cấp vốn. Đáng lưu ý nhất là quy định về lộ trình thực hiện các giới hạn, tỷ lệ an toàn mới trong hoạt động các tổ chức tín dụng, nổi bật là về siết giới hạn tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, áp và nâng hệ số rủi ro cao với các nhóm đối tượng có liên quan đến bất động sản… Các chuyên gia và nhiều ngân hàng cho biết, các quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động được siết chặt hơn, tiêu chuẩn về an toàn vốn được nâng cao hơn… trong khi những biến động từ bên ngoài được dự báo vẫn rất lớn trong năm 2020 càng gia tăng sức ép lên ngành ngân hàng.
Tuy nhiên, sức ép bên ngoài không “đáng sợ” bằn những tồn tại bên trong các ngân hàng. Các ngân hàng vẫn gặp tình trạng như nợ xấu tăng, năng lực tài chính thiếu bền vững, quản tri hệ thống hạn chế, bảo mật thông tin chưa vững. Nhưng điều đang mừng là kết quả kinh doanh “sáng” của ngành ngân hàng đã giúp các chỉ tiêu chung toàn ngành vẫn rất khả quan. Theo NHNN, năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng tiếp tục được củng cố. Tính đến cuối tháng 8/2019, vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần đạt 270 nghìn tỷ đồng, tăng 1,3% so với cuối năm 2018; tổng tài sản có đạt 4.918 nghìn tỷ đồng, tăng 8,0% so với cuối năm 2018; cho vay thị trường 1 (dân cư và tổ chức kinh tế) đạt 3.033 nghìn tỷ đồng, tăng 11,3% so với cuối năm 2018. Ngoài ra, các ngân hàng cũng đã tập trung củng cố, chấn chỉnh toàn diện các mặt tài chính, quản trị, xử lý nợ xấu, tăng cường các biện pháp kiểm soát nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh; tích cực phát triển các dịch vụ thanh toán, dịch vụ phi tín dụng khác và mở rộng dịch vụ bán lẻ, tín dụng tiêu dùng; đẩy mạnh phát triển và đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng. Đặc biệt, sở hữu chéo đã gần như khắc phục được hết.
Theo chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành, kinh tế tăng trưởng đã giúp cải thiện đáng kể lợi nhuận các ngân hàng, nhất là sau giai đoạn tái cơ cấu. Nhưng nợ xấu vẫn là mối lo đối với hoạt động ngân hàng. Bởi thực chất, các khoản nợ xấu bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) sau 5 năm sẽ quay lại ngân hàng và buộc nhà băng dùng nguồn lợi nhuận để tăng trích lập dự phòng. Hơn nữa, chính vì vấn đề nợ xấu, nên nhiều chuyên gia đặt ra lo ngại về việc NHNN nhiều khả năng sẽ tiếp tục hạn chế mức tăng trưởng tín dụng, buộc các ngân hàng phải có những tính toán chặt chẽ và cụ thể trong chi phí quản trị ngân hàng hiệu quả.
Cùng với những vấn đề nêu trên, sang năm 2020, nhiều ngân hàng sẽ còn “đau đầu” tìm phương án tăng vốn. Như tại NCB, ĐHCĐ hồi đầu năm, ngân hàng này đưa ra phương án tăng vốn điều lệ lên trên 7.000 tỷ đồng ngay trong năm 2019 này và sẽ tiếp tục tăng vốn điều lệ lên trên 10.000 tỷ đồng đến năm 2020, nên NCB đang phải nỗ lực đàm phán cũng như lên các phương án thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đặc biệt, sang năm tới, việc tăng vốn cho 4 “ông lớn” ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước sẽ hết sức bức thiết, bởi chính Phó Thống đốc NHNN cũng đã phải thừa nhận, nếu không được tăng vốn, các ngân hàng này sẽ phải hạn chế cấp tín dụng hoặc dừng cấp tín dụng, điều này rất ảnh hưởng đến nhu cầu về vốn đầu tư trong phát triển kinh tế - xã hội, nhất là khi tại Việt Nam, việc phát triển của các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào việc cấp tín dụng của ngân hàng. Nhưng đến nay, phương án tăng vốn cho 4 ngân hàng gồm Agribank, Vietcombank, VietinBank, BIDV vẫn chưa chốt.
Không chỉ về năng lực tài chính, các ngân hàng trong năm tới còn phải đối diện với những thách thức về bán hàng, kinh doanh, bảo mật công nghệ thông tin. Những vấn đề này là những thách thức mang tính thường xuyên, liên tục, khiến các ngân hàng phải nỗ lực để đối diện và vượt qua. Điều này cho thấy, ngành ngân hàng cần phải liên tục hành động, nhận diện được các khó khăn, cơ hội để vươn lên, điều này cần quyết tâm rất lớn của toàn ngành, của các cơ quan quản lý bởi đây là ngành quan trọng cho phát triển kinh tế chung của cả nước.
Thực tế cho thấy, nợ xấu ngân hàng vẫn là mối lo từ năm này sang năm khác của ngành ngân hàng. NHNN cho biết, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 8/2019 của toàn ngành là 1,98%. Tuy vậy, nếu đi vào từng ngóc ngách của mỗi ngân hàng thì sẽ thấy vấn đề nợ xấu vẫn rất đáng ngại, khi có nhiều ngân hàng tăng số lượng nợ xấu, thậm chí có ngân hàng tỷ lệ nợ xấu vượt mức 3% theo quy định của NHNN. Tiêu biểu như ABBank, 9 tháng 2019, nợ xấu tăng mạnh từ 1,89% hồi đầu năm lên 3,39%; NamABank cũng tăng từ 1,54% lên 2,37%; VPBank với tỷ lệ nợ xấu ở mức 3,5%... |