Khoảng 90% số người lao động sau khi đi làm việc ở nước ngoài trở về có tích lũy,độngxuấtkhẩuctchlũykhivềnướlịch thi đấu bóng đá cúp ý phần lớn lao động sau khi về nước có việc làm ngay mặc dù còn gặp khó khăn khi hòa nhập thị trường lao động và chất lượng việc làm còn thấp.
Đó là kết quả khảo sát “Đánh giá thực trạng lao động đi làm việc có thời hạn theo hợp đồng đã trở về Việt Nam” được thực hiện vào năm 2010 và 2011 vừa được Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội công bố.
Khảo sát tập trung vào những người lao động đã đi làm việc ở 4 thị trường Đài Loan, Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Ảnh minh họa: Hầu hết người lao động có việc làm trong khoảng 1 tháng đầu sau khi về nước. |
Kết quả cho thấy, phần lớn lao động sau khi về nước có việc làm ngay (80,6%), tuy nhiên chất lượng việc làm còn thấp. Đại bộ phận người lao động làm các công việc lao động giản đơn chiếm 57,3% trong tổng số lao động hiện đang có việc làm.
So với công việc trước khi đi xuất khẩu lao động, cơ cấu việc làm của công việc hiện tại đã có sự chuyển dịch tích cực, tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm 18,4% (từ 57,48% xuống còn 39,08%). Về cơ cấu theo hình thức việc làm, tỷ lệ lao động làm công ăn lương tăng lên gần 10% (từ 31,78% lên 40,8%). Theo vị thế việc làm, tỷ lệ lao động giản đơn giảm 13,7% (từ 71% xuống còn 57,3%).
Mặc dù hầu hết người lao động có việc làm trong khoảng 1 tháng đầu sau khi về nước (90,39%) nhưng phần lớn người lao động vẫn cho rằng họ còn gặp khó khăn để tìm được việc làm có thể phát huy được kiến thức, kỹ năng mà họ thu nhận được trong quá trình làm việc ở nước ngoài.
Điều đáng mừng là có đến 88,9% số người được hỏi khẳng định có tích lũy từ xuất khẩu lao động. Trong đó, mức tích lũy cao và ổn định nhất thuộc về thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc, thấp nhất là Malaysia. Mức tích lũy bình quân của người lao động làm việc đủ 3 năm ở Nhật Bản là 312 triệu đồng/người, Hàn Quốc 243 triệu đồng/người, Đài Loan 145 triệu đồng/người và Malaysia 51 triệu đồng/người.
Tuy nhiên, phần lớn số tiền người lao động tích lũy được sử dụng để giải quyết các nhu cầu cấp bách của gia đình: trả nợ phát sinh từ trước hoặc trong quá trình đi xuất khẩu lao động (chiếm 34,37% tổng số tiền tích lũy); xây dựng, sửa chữa nhà cửa (28,49%) và mua sắm đồ đạc trong gia đình (10,59%). Việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư cho việc học hành còn rất hạn chế, chỉ chiếm tương ứng khoảng 8,79% và 3,67% tổng tiền tích lũy.
Bên cạnh đó, nhờ nhận thức được nâng cao trong quá trình làm việc ở thị trường Nhật Bản, một bộ phận nhất định lao động trở về từ thị trường này đã không tìm việc làm ngay mà tiếp tục học lên để nâng cao trình độ (chiếm 7,41% trong tổng số lao động trở về từ Nhật Bản). Đây là tác động tốt của xuất khẩu lao động, giúp người lao động tạo được nền tảng vững chắc khi tìm việc làm. Một số rất ít lao động ở thị trường Hàn Quốc, Đài Loan và Malaysia cũng tiếp tục đi học sau khi về nước (chiếm tỷ lệ tương ứng 0,48%; 1,04%; 1,52%).
Tình trạng người lao động không trả được nợ vay sau khi về nước cũng chỉ chiếm một phần nhỏ (khoảng 10% số lao động có vay nợ). Số này tập trung chủ yếu vào nhóm lao động đi làm việc tại Malaysia.
Nguyên nhân chủ yếu ở đây là do về nước trước hạn hay về nước đúng hạn nhưng thường xuyên bị ngừng việc hay thiếu việc làm khi ở nước ngoài do khủng hoảng kinh tế nên không đủ tích lũy để trả nợ.
Ngoài ra, một số nguyên nhân khác như giải quyết rủi ro của gia đình nên cũng chưa có tiền để trả nợ và một số lao động trẻ thiếu ý thức tiết kiệm nên không có tích lũy, cũng như một số trường hợp người lao động nhận thức kém đã cố tình không trả nợ cho ngân hàng.
Như vậy, mặc dù mới chỉ nghiên cứu trên số lượng mẫu tập trung vào 4 thị trường, nhưng kết quả của cuộc khảo sát cũng đã cho thấy bức tranh khá toàn diện về thực trạng của các lao động xuất khẩu sau khi trở về nước. Đây sẽ là kết quả giúp các nhà quản lý tìm giải pháp hỗ trợ kịp thời để người lao động yên tâm khi về nước.
Nguồn: Chinhphu.vn