Rau má còn có tên gọi khác là tích tuyết thảo,ácókhảnăngphòngngừaungthưhiệuquảbxh bd pháp liên tiền thảo (pennywort), tên khoa học là Centella asiatica (L.) thuộc họ Hoa tán Umbelliferae. Đây là loài rau dại ăn được thường mọc ở những nơi ẩm ướt như thung lũng, bờ mương thuộc những vùng nhiệt đới như Việt Nam, Lào, Cambuchia, Indonesia, Malasia, Madagascar.
Rau má chứa các chất như beta caroten, sterols, saponins, alkaloids, flavonols, saccharids, calcium, iron, magnesium, manganese, phosphorus, potassium, zinc, các loại vitamins B1, B2, B3, C và K…
Theo lương y đa khoa Bùi Đắc Sáng (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Hội Đông y Hà Nội), rau má hơi ngọt, vị đắng, tính mát, dùng để thanh nhiệt giải độc, chống nhiễm trùng, chống độc, lợi tiểu. Ngoài dùng làm thuốc, rau má còn được dùng là rau ăn sống. Hiện nay, với những giá trị lớn từ rau má, người ta còn làm sinh tố uống giúp đẹp da tốt cho sức khoẻ.
Từ những năm 1940, y học hiện đại bắt đầu nghiên cứu những tác dụng của rau má. Họ thấy rau má có những hoạt chất thuộc nhóm saponins (còn được gọi là tripernoids) bao gồm asiaticoside, madecassoside, madecassic acid và asiatic acid…