* PV: Tình hình xâm nhập mặn tại ĐBSCL đang diễn biến ngày càng nghiêm trọng,ầnlàmgìtrướctìnhhìnhhạnhánxâmnhậpmặnởđồngbằngsôngCửbảng xếp hạng league one pháp ảnh hưởng đến đời sống người dân địa phương, ông đánh giá thế nào về tình trạng này?
|
Tiến sỹ Lê Đức Trung:Đối với ĐBSCL, nhiều chuyên gia đã đánh giá đây là thời kỳ hạn hán nhất trong lịch sử 100 năm qua của khu vực. Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam cũng có chuỗi số liệu về khí tượng thủy văn và dòng chảy cho thấy, những thông số về hạn đã vượt mức thấp nhất trong 30 năm gần đây. ĐBSCL có hơn 90% nguồn nước là từ bên ngoài. Vấn đề hạn hán ở đây phụ thuộc vào những yếu tố: Nguồn nước bên ngoài, tình hình mưa và việc sử dụng nước ở khu vực đồng bằng; những tác động từ ngoài biển như mức triều.
Các chuyên gia của Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam cũng thu thập số liệu và phân tích nguồn nước từ bên ngoài, từ đó nhận định lượng mưa của ĐBSCL trong năm nay rất thấp, thậm chí ở mức lịch sử. Trong tháng 2/2016, khu vực này hầu như không có mưa nên ảnh hưởng rất lớn đến dòng chảy sông Mê Kông trên dòng chính và dòng chảy vào Việt Nam. Khi mưa ít, hạn hán xảy ra, việc sử dụng nước trong lưu vực phải gia tăng nhằm đảm bảo tưới tiêu, nông nghiệp…, do đó, nguồn nước vào Việt Nam cũng ít đi làm hạn hán lại càng nghiêm trọng.
Mùa kiệt của ĐBSCL là vào cuối tháng 3, đầu tháng 4/2016 và dự báo tình hình hạn hán, xâm nhập mặn sẽ ngày càng nguy cấp. Ngoài một số công trình thủy điện trên dòng chính phía thượng lưu của một số nước gần Việt Nam cũng có một số công trình chuyển nước trong khu vực khiến hạn hán ở hạ lưu sông Mê Kông trầm trọng hơn. Trong nội bộ đồng bằng, ngoài lượng mưa ít, việc sử dụng nước trong mùa khô cao thì đỉnh triều theo thống kê trong 2 -3 tháng qua cũng rất cao, góp phần đẩy mặn sâu vào ĐBSCL.
* PV: Có ý kiến cho rằng, việc xây dựng một loạt công trình thủy điện ở thượng nguồn sông Mê Kông đang ảnh hưởng đến đa dạng sinh thái và nguồn sống của khu vực hạ lưu là ĐBSCL. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
Tiến sỹ Lê Đức Trung:Đối với công trình thủy điện đã xây dựng được hai năm và hiện mới đạt 50% khối lượng thi công do công trình cách Việt Nam 2.000 km, chưa chặn dòng chính của sông Mê Kông và chưa có tác dụng điều tiết nên tạm thời không tác động đến ĐBSCL. Tuy nhiên, trong vòng 4- 5 năm tới, khi những công trình thủy điện này đi vào hoạt động, lúc đó sẽ có tác động lên dòng chảy và trong mùa khô có thể có những ảnh hưởng đến ĐBSCL. Chúng ta cần nghiên cứu, theo dõi và giám sát chặt chẽ vấn đề này.
* PV: Ông đánh giá gì về tác động của các công trình thủy điện phía thượng lưu đối với việc phát triển kinh tế - xã hội?
Tiến sỹ Lê Đức Trung:Trong ba năm qua, Chính phủ đã giao Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam tiến hành nghiên cứu tác động các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông tới vùng ĐBSCL và vùng châu thổ sông Mê Kông của Việt Nam - Campuchia. Nghiên cứu này đã được hoàn thành và báo cáo Chính phủ vào tháng 12/2015.
Về mặt dòng chảy, các công trình này làm suy giảm dòng chảy trong mùa khô trong chu kỳ dòng chảy ngắn hạn, từ đó dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn tăng. Ngoài ra, các công trình này còn tác động đến nguồn thủy sản ở ĐBSCL và lượng phù sa bùn cát. Các chuyên gia tham gia nghiên cứu cũng dự báo sản lượng thủy sản ở ĐBSCL sẽ mất 50%, và lượng phù sa mất 70%.
* PV: Vậy Việt Nam cần thực hiện những giải pháp gì để cân bằng lợi ích giữa các quốc gia trong lưu vực sông Mê Kông, thưa ông?
Tiến sỹ Lê Đức Trung:Các quốc gia có quyền theo đuổi những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội phục vụ cho quốc gia mình nhưng khi sử dụng chung một dòng sông, các quốc gia vẫn phải tuân thủ những điều luật, thông lệ quốc tế. Đặc biệt, khi chúng ta có Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho các mục đích phi giao thông thủy, đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 21/5/1997 và có hiệu lực năm 2014. Ngoài ra, còn có những quy định quốc tế và vùng khác cho lưu vực sông Mê Kông. Điển hình là Hiệp định hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Kông năm 1995 và bộ Quy chế sử dụng nước của Ủy hội. Đây là những nguyên tắc về nguồn nước quốc tế đã được thừa nhận và chúng ta cần tuân thủ. Đây cũng là cơ sở để Việt Nam phối hợp với các quốc gia trên dòng sông Mê Kông, đặc biệt trong lưu vực sông Mê Kông quốc tế để sử dụng nguồn nước chung một cách bền vững.
Ủy hội sông Mê Kông quốc tế đã xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển lưu vực và sẽ khuyến cáo các quốc gia trong lưu vực nỗ lực trao đổi thông tin về các công trình sử dụng nước trên sông Mê Kông; đảm bảo nguyên tắc sử dụng công bằng và hợp lý đối với quyền sử dụng nước của các quốc gia ở khu vực hạ lưu cũng như Việt Nam. Đó là những quy định Việt Nam đang cố gắng đạt được cả về cam kết cũng như thực hiện.
ĐBSCL có tới hơn 90% nguồn nước phụ thuộc vào nước ngoài, do đó vấn đề hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong lưu vực là rất quan trọng. Đối với Ủy hội sông Mê Kông quốc tế, Việt Nam đã có quy hoạch, chiến lược phát triển lưu vực dựa trên quản lý tổng hợp tài nguyên nước và mạng giám sát. Việt Nam phải có các giải pháp tăng cường, ứng phó như: Xây dựng hệ thống hồ đập giữ nước, cống ngăn mặn... Tuy nhiên, những giải pháp này có thể chưa phát huy được ngay. Trong lúc chờ đợi giải pháp triệt để, chúng ta phải có giải pháp thích ứng và chiến lược sử dụng nước ví dụ như thay đổi cơ cấu mùa vụ; chọn những giống cây trồng, vật nuôi thích nghi với tình hình hạn hán, xâm nhập mặn.
* PV: Xin cảm ơn ông!
Theo dangcongsan.vn